Về Lam Kinh và lên Lam Sơn

Hơn 60 năm trước, lũ trẻ quê miền Nam học lịch sử rất mê mệt những câu chuyện đẹp như thần thoại: Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần, Hội thề Lũng Nhai, Lê Lai cứu chúa, Lê Thận đắc bảo kiếm sông Chu, Sự tích núi Dầu…, đặc trưng là “thiên cổ hùng văn” Bình Ngô đại cáo.

Giếng cổ và Nghi môn, Lam Kinh - Ảnh: Vũ Đình Sỹ
Giếng cổ và Nghi môn, Lam Kinh – Ảnh: Vũ Đình Sỹ

Đám trẻ chăn bò thời ấy, con gái thường nghêu ngao “Em đố anh trong khoảng Nam chí Bắc. Sông nào là sông sâu nhất? Núi nào là núi cao nhất nước ta? Anh mà giảng được cho ra. Thì em kết nghĩa giao hòa cùng anh”. Cánh con trai đáp lại “Sâu nhất là sông Bạch Đằng. Ba lần giặc tới, ba lần giặc tan. Cao nhất là núi Lam Sơn. Sở hữu ông Lê Lợi trong ngàn bước ra”.

Nhờ làm du lịch, tôi đã mấy lần xúc động xuôi sông Bạch Đằng, đứng trước bãi cọc gỗ anh dũng nghìn năm. Lam Sơn thì tôi chưa tới dù chỉ cách thức vài chục phút leo dốc. Điều đó sau này tôi mới biết. Ấy là ngọn núi Lê Lợi (1385-1433) dựng cờ khởi nghĩa, đánh đuổi giặc Minh xâm lăng từ năm 1418-1428. Cuộc kháng chiến hết sức gian khổ, ác liệt nhưng đầy ắp nhân bản và nghĩa khí “Nhân – Trí – Dũng” Đại Việt.

“Độc ác thay, trúc Nam Sơn ko ghi hết tội. Dơ bẩn thay, nước Đông Hải ko rửa sạch mùi…”. (Bình Ngô đại cáo). Tội ác của giặc tới tột độ. Thế mà khi chiếm được thành Đông Quan, Lê Lợi đã tổ chức Hội thề Đông Quan để giặc Minh tạ lỗi, cảm ơn trời đất. Hơn 100.000 tướng, quân nhân giặc Minh được cấp tàu thuyền, ngựa xe, lương thực, quần áo để về nước.

Lam Sơn xưa là vùng đất cổ, từ thời Hùng Vương, thuộc miền tây Thanh Hóa, núi rừng trùng điệp, hiểm trở, nối liền với Lào. Cửa ngõ là mấy con đường mòn nhỏ hẹp, xuyên rừng, vượt núi, nghiêm trọng rình rập. Lam Sơn nay thuộc thị trấn Lam Sơn (huyện Thọ Xuân), có di tích quốc gia đặc thù Lam Kinh.

Thành điện Lam Kinh xưa “Tọa sơn hướng thủy”, theo tiêu chuẩn vàng phong thủy Á Đông. Tiền án núi Chúa, tả rừng Phú Lâm, hữu núi Hương, tây núi Hàm Rồng án ngữ. Khu Hoàng thành, cung điện và tông miếu xây theo trục Nam – Bắc, trên khoảng đồi gò, hình chữ vương (王). Chiều dài 314m, ngang 254m, tường bắc hình cánh cung, bán kính 164m, dày 1m. Thành xưa có Ngọ môn, sân rồng, chính điện, khu Thái miếu… hoa lệ tráng lệ.

Chính điện khu di tích Lam Kinh và núi Lam Sơn nhìn từ trên cao
Chính điện khu di tích Lam Kinh và núi Lam Sơn nhìn trong khoảng trên cao

Khu di tích lịch sử Lam Kinh quy hoạch hơn 200ha, vùng lõi chiến khu Lam Sơn xưa mà trọng tâm là những lăng phần, đền miếu, hành cung các vua Hậu Lê về bái yết tiên tổ. Cầu Bạch (Tiên Loan Kiều) xưa khiến bằng gỗ lim (nay phục dựng bằng đá), hình cánh cung, trên sông Ngọc, kiến trúc “Thượng gia hạ kiều” dẫn khách vào thành. Qua cầu là giếng cổ, các con phố kính mấy chục mét, nước trong xanh màu ngọc bích, vòng vèo năm ổn định, cấp nước cho cổ thành; xưa bờ đất, lối lên xuống lát đá, nay kè đá hầu hết, không sở hữu lối lên xuống.

Ngọ môn gồm 3 gian. Gian giữa rộng 4,6m, gian bên rộng 3,5m. Nền rộng 11m, dài 14m, có 3 cửa ra vào. Sân rồng (sân chầu) rộng 3.539m2; lối lên là thềm lớn, rộng 5m, có 9 bậc, 3 lối lên, lối giữa rộng 1,8m, lối bên rộng 1,21m, trang trí hình rồng tạc tròn, thân uốn khúc, mây hóa rồng.

Khu chính điện gồm 3 tòa điện lớn, nền cao một,8m, ngang 38m, sâu 46m. Phía sau chính điện (9 tòa Thái Miếu) là Vĩnh Lăng Lê Thái Tổ, sở hữu minh tuyến đường sông Ngọc và bình phong núi Chúa, gối tựa núi Dầu; tả, hữu “hổ phục rồng chầu”. Lăng đắp đất, tiếp giáp với xây chèn bằng gạch vồ xếp khít đá đục nhám, được bổ sung khi tu bổ sau năm 1995. Phía trên lăng đắp đất, giao hòa âm dương.

2 bên có hai hàng tượng quan hầu và 4 đôi thú đá trấn trạch (nghê, ngựa, tê ngưu, hổ). Khoảng năm 1933, người dân cung tiến 2 cặp voi quỳ chầu bằng vôi vữa, hướng chầu và kích cỡ khá lớn. Linh vật cổ thường nhỏ hơn để không lấn lướt vong linh người đã tắt hơi. Bia Vĩnh Lăng cưỡi rùa bằng đá trầm tích biển nguyên khối; cao 2,97m, rộng 1,94m, dày 0,27m. Rùa dài 3,46m, rộng 1,9m, cao 0,9m.

Trước Vĩnh Lăng có cây ổi cười. Tiêu dùng ngón tay cù nhẹ lên thân, cây rung nhẹ như đang cười dù ko có gió. Cây “cười” do thế cây, sở hữu rộng rãi nhánh nhỏ, dài, vươn ngang. Chỉ cần chút kích hoạt, cây sẽ “cười”. Trong khu di tích sở hữu phổ thông cổ thụ, trong đó sở hữu “Cây lim hiến thân” hơn 600 năm tuổi (tương đương tuổi khởi nghĩa Lam Sơn).

Nghe nói, cây lim đang xanh tươi bất thần trút hết lá khi Dự án bình phục phỏng dựng chính điện Lam Kinh được phê chuẩn năm 2010. Thân và cành lim đủ kích thước làm cột dòng, cột quân, cột góc, thượng lương, chuyên dụng cho lễ Phạt mộc khởi công cung điện vào tháng 10/2010. Trục đường kính gốc lim trùng khớp với chân đá tảng cột dòng 0,8m, phần ngọn 0,65m vừa khít chân đá tảng cột quân. Nghe đâu cây lim này sinh ra để thực hành sứ mạng 600 năm sau, cho hậu thế.

Ngôi mộ đất khiêm tốn như nhân cách Bình Định Vương Lê Lợi – sống anh hùng áo vải vì dân; thác khiêm cung nhắn gửi. Vĩnh Lăng bình dị nhưng trầm ngâm, linh thiêng. Càng hiểu hơn tâm nguyện Lê Lợi lúc dựng cờ tụ nghĩa Lam Sơn.

Mấy lần tới Lam Kinh, tôi chỉ vội vàng quanh quẩn chính điện, Vĩnh Lăng… Tháng Bảy vừa rồi, cộng một hàng ngũ khách, tôi quyết lên Lam Sơn. Lam Sơn còn gọi là núi Dầu. Tục truyền, đêm đêm, Lê Lợi thắp đèn dầu, khiến hiệu đón nghĩa sĩ về tập kết. Dầu do một người đàn bà cung cấp. Người này bị giặc phát hiện, giết hại. Dân gian vẫn lưu truyền “Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi, hăm ba giỗ mụ hàng dầu”.

Cầu Bạch trên sông Ngọc Lam Kinh
Cầu Bạch trên sông Ngọc Lam Kinh

trục đường lên núi uốn lượn giữa rừng, chừng 500m, lát đá, trời mưa nên hơi trơn. Quãng con đường khiến cho chúng tôi hơi mệt nhưng không quá khó. Ai cũng hồ hởi, muốn chinh phục đỉnh Lam Sơn để rồi khi đến nơi thì hụt hẫng vì ko sở hữu vết tích gì ngoài 1 ngôi miếu nhỏ.

Theo tôi, có thể khiến ngay bia đá dẫn tích hoặc biểu tượng Lam Sơn. Nên dành một khoảng đất trống để các doanh gia khởi nghiệp đưa nhân viên tới khai doanh, xin anh linh tiên sư cha, trời đất và Lam Sơn hộ trì.

***

Hôm ấy, đỉnh Lam Sơn mưa dầm, gió se sắt. Tôi cứ mãi băn khoăn vì hiện hữu chưa tương xứng với tầm vóc Lam Sơn. Đền đài như hiện giờ là đủ, ko cần làm thêm nhưng rất cần phục dựng những di tích: “Ruộng rau má Lê Lợi”, “Khu hậu cần và bếp ăn Lam Sơn”, “Lò rèn đúc binh khí nghĩa quân”, “Bãi tập tành quân sĩ”, “Kho thóc và muối”, “Doanh trại nghĩa quân”… giả sử được vậy, Lam Kinh sẽ là trại trường tập huấn học trò, sinh viên Việt Nam. Du khách tới Lam Kinh phải đang ký tạm trú vài đêm trở lên mới cảm nhận được phần nào “Hào khí Lam Sơn” một thời oanh liệt và trường tồn.

Khu di tích Lam Kinh cách thức bến xe Thanh Hóa 57km, ga Thanh Hóa 53km, sân bay Thọ Xuân 13km. Quốc lộ 47 đi Lam Kinh trục đường khá phải chăng. Ngoài các đặc sản Thanh Hóa, Lam Kinh sở hữu đũa kim giao, nấm lim xanh, rau má (dạng tươi, khô, bột)… Nơi đây có nhiều quán ăn bình dân chất lượng. Du khách thường kết nối Lam Kinh với suối Cá Thần, nghỉ đêm Pù Luông với phổ thông trải nghiệm thú vị. Tour thường kéo dài trong khoảng 3-4 ngày.

Nguyễn Văn Mỹ (Lửa Việt Tours)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *